Đề bài: Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận

Bài văn mẫu 1

   Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng viết: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Như vậy Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc của phong trào thơ mới, với hồn thơ buồn man mác, giàu chất suy tưởng, hàm súc và triết lí. “Tràng giang” là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất cho phong cách thơ Huy Cận, bộc lộ nỗi sầu của cái tôi cá nhân cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, ẩn đằng sau đó là cả một tình người, tình đời và lòng yêu nước sâu sắc, thầm kín.

   Bài thơ ban đầu có tên “Chiều trên sông” sau đổi thành “Tràng giang” được in trong tập “Lửa thiêng”_tập thơ đầu tay của Huy Cận bao trùm lên là cảm xúc nỗi buồn mênh mông của tác giả về cuộc đời và kiếp người. “Tràng giang” được bắt nguồn cảm hứng vào một chiều thu 1939 Huy Cận đứng ở bờ Nam bến nước Chèm nhìn cảnh sông Hồng sóng nước mênh mông mà buồn về cho thân phận mình và những kiếp người nhỏ nhoi. Khi ấy ông đã rời quê hương ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh Nông mang trong mình nỗi sầu của lứ thứ xa quê, và tình cảnh của người thanh niên trước hoàn cảnh nước nhà bị xâm lăng nên ông đã gửi vào hồn thơ nỗi buồn nhân thế và thầm kín thể hiện tình yêu đất nước.

   “Tràng giang” (sông dài) nhan đề gợi ra cho ta cảm giác mênh mông, dài rộng. Đây lại còn là một từ Hán Việt nên gợi sự cổ kính, cổ điển. Nhà thơ không nói về tên của dòng sông cụ thể mà nhan đề chỉ mang tính chất gợi và khái quát. Bên dưới nhan đề là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” vừa thể hiện nội dung tư tưởng, vừa gợi mở cảm hứng bao trùm và cảm xúc chủ đạo của toàn tác phẩm. Trong bài thơ này đó là cảm xúc chủ đạo là nỗi buồn bâng khuâng của nhà thơ trước cảnh thiên nhiên rộng lớn.

   Thi sĩ chọn điểm nhìn từ bên trên quan sát toàn cảnh dòng sông dài rộng bên dưới với các hình ảnh nổi lên:

    “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

    ...Củi một cành khô lạc mấy dòng”

   Trên bề mặt là “sóng gợn” sự chuyển động nhẹ nhàng, phẳng lặng, tan theo gió trời. Không gian ở đây được mở ra thật vắng vẻ, buồn hiu với cụm từ “buồn điệp điệp”. Từ láy “điệp điệp” cho thấy nỗi buồn ấy hiện lên dai dẳng, triền miên như từng lớp sóng nước mênh mông. Đây là nỗi sầu không dứt của nhà thơ khi đứng trước thiên nhiên bao la, bỗng thấy mình trở nên cô đơn, nhỏ bé. Hình ảnh con thuyền hiện lên giữa dòng sông gợi về kiếp người nổi trôi, lênh đênh, gợi về sự cô đơn chi tiết “xuôi mái” cho thấy sự phó mặc, buông xuôi. Thuyền và nước thường phải có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau nhưng ở đây ta thấy nó như rời rạc, tách nhau ra bởi “thuyền xuôi” còn “mái nước song song”, thuyền và nước lại ngược hướng với nhau “thuyền về nước lại” tạo ra sự tan tác, li biệt và ngăn cách. Nỗi sầu của nước tan chảy ra trăm ngả trên sông. Nỗi sầu ấy cũng là nỗi sầu nhân thế của thi nhân mang tâm trạng chán nản, buồn tủi. Hình ảnh con thuyền bơ vơ, cô độc là một thi liệu quen thuộc đã từng xuất hiện trong thơ xưa như: “Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến trường giang thiên tế lưu” (Bóng buồm đã khuất bầu không/ Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời). Hình ảnh cành củi khô ở câu cuối thật ấn tượng và đầy ám ảnh. Đúng ra là một cành củi khô nhưng Huy Cận đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ “Củi một cành khô” để nhấn mạnh đặc điểm đối tượng và làm cho câu thơ thêm ấn tượng độc đáo, sinh động. Cành củi lìa rừng xanh bơ vơ trôi dạt giữa dòng sông rộng lớn cho thấy sự cô đơn, nhỏ bé và lạc lõng, lênh đênh vô cùng. Hình ảnh ấy khiến ta liên tưởng tới câu thơ của Hồ Xuân Hương: “Chiếc bách buồn về phận nổi nênh/ Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh” gợi về thân phận nổi trôi của người phụ nữ trong xã hội xưa. Như vậy bốn câu thơ đầu mở ra một khung cảnh sông nước mênh mông bao la, bát ngát nổi lên trên nền đó là các sự vật nhỏ bé, lìa tan nhuốm màu tâm trạng buồn tủi của nhà thơ.

   Không còn là điểm nhìn giữa dòng sông nhà thơ chuyển hướng sang cảnh bên bờ sông được đặc tả ở khổ thơ thứ hai:

    “Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu

    ...Sông dài trời rộng bến cô liêu”

   Trong một câu thơ mà có đến hai từ láy xuất hiện “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi âm điệu nhẹ nhàng cũng như chuyển động của sự vật trong con mắt thi nhân rất khẽ khàng, uyển chuyển. Gió ở đây không phải là cơn cuồng phong thịnh nộ hay trường phong_cơn gió dài mà ở bên kia cồn cỏ lơ thơ ấy chỉ là cơn gió nhè nhẹ thoáng qua đủ để ta cảm nhận. Quang cảnh đã thay đổi nhưng nỗi niềm cảm xúc vẫn chỉ có thể, vẫn bao trùm lên là nỗi buồn. Chợ chiều vốn dĩ đã buồn nay lại được đặc tả trong lúc đã vãn, không có bóng người hiện lên nhà thơ không nhìn thấy mà chỉ nghe tiếng “làng xa vãn chợ chiều”, từ đâu như vừa dùng để hỏi cũng là vừa phủ định làm gì có tiếng chợ chiều nào. Chợ chiều ở làng xa đó có thật hay chỉ trong kí ức, tâm tưởng nhà thơ dội về. Có lẽ là tiếng chợ chiều vọng về từ quá khứ thuở xưa bởi giữa đất trời mênh mông sông nước ấy làm sao có thể nghe thấy âm thanh của chiều quê. Phải chăng nhà thơ đang nhớ quê hương nên hồi tưởng lại. Cái nhìn của thi nhân lại chuyển hướng lên trời cao để quan sát cảnh vật khi chiều tà đó là mặt trời đã ngả về Tây “Nắng xuống trời lên sâu chót vót”, theo lẽ thông thường ta phải nhìn thấy cái cao vút vô tận của bầu trời còn thi nhân lại thấy được bề sâu, từ láy “chót vót”cũng thật đặc biệt thường thì người ta nói cao chót vót chứ chưa ai bảo sâu chót vót. Huy Cận thật sáng tạo khi tả bề sâu để nói chiều cao, bởi trời càng cao thì càng sâu thăm thẳm. Giữa khoảng trời mênh mông ấy là con sông dài, trời rộng chỉ còn bến cô liêu. Cô liêu là từ Hán Việt để chỉ sự trơ trọi, vắng vẻ, u tịch của cảnh vật. Dù không nói đến bóng dáng con người nhưng ta cũng thấy thấp thoáng bóng cô đơn của thi nhân đang bơ vơ giữa bầu không rộng lớn.

   Dường như nhà thơ chỉ quan sát quẩn quanh từ sông đến trời, từ trời cao lại trở về sông. Giờ đây không còn con thuyền cũng chẳng có cành củi khô thay vào đó là những hình ảnh mới:

    “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng

    ...Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

   Xưa nay kiếp duyên bèo nước luôn gợi đến thân phận, nổi trôi, lênh đênh phiêu dạt của kiếp người. Nguyễn Dũ đã từng dùng hình ảnh cánh bèo để thể hiện cho cuộc đời Kiều: “Nghĩ mình mặt nước cánh bèo/ Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân”. Nhưng bèo trong thơ Huy Cận không phải một cánh, vài ba cánh hay là một đám bèo mà là “hàng nối hàng” cứ lần lượt nối tiếp nhau chảy xuôi dòng nước chẳng biết trôi dạt về nơi nào. Mênh mông vời vợi con nước không một chuyến đò ngang, không một chiếc cầu. Thi nhân muốn có gì đó để bấu víu lấy cảm xúc cho đỡ trơ trọi nhưng đổi lại chỉ là một chữ không được điệp lại hai lần ở câu trên và câu dưới chỉ còn biết lặng lẽ với bờ xanh tiếp bãi vàng. Mọi thứ trở nên tĩnh lặng vô cùng, dường như sự sống ở đây chỉ có một mình nhà thơ với cảnh vật. Cảnh đẹp mà cô liêu, ảm đạm, sầu thảm như chính tâm hồn thi nhân.

   Nhà thơ lại chuyển điểm nhìn lên trời cao với mây, núi, cánh chim nghiêng khiến cho tâm trạng nhớ nhà của đứa con xa quê càng thêm sâu sắc:

    “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

    ...Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

   Cảnh hoàng hôn thường là rất đẹp, mà qua cái nhìn thi nhân nó lại càng đẹp hơn. Thơ xưa đã có biết bao thi nhân tả chiều vàng ấy như trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du có một câu viết rất hay về cảnh hoàng hôn:”Nhật mộ đăng cao, bi mạc bi” (Nắng cuối lên cao, thương ngập thương). Người nhìn cảnh mênh mông bao la của buổi chiều trong núi mà trong lòng ngập tràn cảm giác thê lương, buồn thảm không duyên không cớ. Nỗi buồn ấy đượcc tạo ra từ tâm hồn thi sĩ trước cảnh vật làm nên hồn thơ say đắm lòng người. Ở đây Huy Cận cũng vậy nhìn cảnh hoàng hôn mây từng lớp từng lớp chồng lên nhau tạo thành núi bạc khi có nắng chiều chiếu vào. Hình ảnh trong câu thơ rất đỗi quen thuộc bởi khi xưa Đỗ Phủ đã từng viết: “Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm/Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Từ “đùn” tạo cảm giác uể oải, chậm chạp như những đám mây đang đùn đẩy nhau. Hình ảnh cánh chim nhỏ dưới bóng chiều buông xuống mang nặng tư tưởng tác giả. Cánh chim ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé bị bão táp cuộc đời xô đẩy, chao nghiêng đôi cánh. Cũng là ẩn dụ cho cái tôi cá nhân phiền não của thi nhân trải nỗi buồn ra khắp không gian. Hình ảnh cánh chim cũng là một thi liệu cổ điển ta đã từng bắt gặp trong thơ của Lí Bạch là “Chúng điểu cao phi tận” hay cánh chim mỏi trong thơ Hồ Chí Minh “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ”. Bức tranh thiên nhiên với nét cổ điển trong thi liệu đã Huy Cận tạo dựng thật đặc sắc, ẩn đằng sau đó là cái tôi nhỏ bé của nhà thơ.

   Hai câu thơ cuối thật ấn tượng bởi nó được gợi từ hai câu thơ trong bài “Lầu Hoàng Hạc” của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” nếu tiền nhân đời Đường bên Trung Hoa nhìn khói sóng trên sông mà nhớ quê hương thì Huy Cận “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Nỗi nhớ thương quê hương của tác giả luôn thường trực trong ý thức, thấm thía trong từng cảm giác. Nỗi nhớ ấy chưa hề vơi cạn mà cũng hiện lên lớp lớp như con sóng qua từ láy “dợn dợn”. Nỗi nhớ, nỗi buồn sầu của Huy Cận là nỗi buồn của một lớp trí thức lúc bấy giờ đang “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”.

   Như vậy bằng bút pháp cổ điển và hiện đại, ngôn từ được chắt lọc, nhiều từ láy gợi hình , gợi cảm được sử dụng đã vẽ nên một bức tranh sông nước, mây trời mênh mông vô tận hiện lên một cái tôi cá nhân bé nhỏ, cô đơn trước cuộc đời. Bài thơ bên cạnh tả cảnh thiên nhiên đẹp mà buồn còn thể hiện một tâm hồn yêu tha thiết sự sống cảnh vật và tình yêu quê hương đất nước sâu sắc mà thầm kín của thi sĩ.

Bài văn mẫu 2

    Nhắc tới Huy Cận, người ta nhớ ngay đến một “hồn thơ ảo não” (Hoài Thanh). Trước cách mạng tháng Tám 1945, ông đã góp mặt vào thơ ca đương thời một nỗi sầu nhân thế, một cái tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời. Với sự pha trộn giữa chất cổ điển và hiện đại, ông đã gửi gắm nỗi niềm ấy trong nhiều bài thơ, trong đó phải kể đến Tràng giang. Bài thơ in trong tập “Lửa thiêng” (1940) rất tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận.

    Vào một buổi chiều thu năm 1939, có một chàng sinh viên trường Cao đẳng Canh nông, đạp xe dọc theo bờ đê sông Hồng, đến tới bãi Chèm – phía Nam dòng sông, trước cảnh sóng nước mênh mông, đã không kìm nén nổi cảm xúc buồn bã, cô đơn và nhớ nhà da diết nên sáng tác bài thơ Tràng giang. Nhà thơ Huy Cận đã từng tâm sự về hoàn cảnh ra đời bài thơ như thế. Ban đầu, tác phẩm có tên là “Chiều trên sông” nhưng về sau đổi thành Tràng giang. Nhan đề này đã chuyển tải nhiều ý nghĩa hơn. “Tràng giang” là một từ Hán Việt đầy trang trọng, cổ kính, chỉ một con sông dài. Nhưng nhà thơ không dùng “trường giang” (có cùng nghĩa) để thay thế, bởi cách điệp vần “ang” giúp nhan đề vừa gợi âm hưởng ngân vang, vừa gợi nên cảm giác một dòng sông không những dài mà còn rộng. Thêm lời đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài càng làm rõ hơn sắc thái cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Đó là nỗi buồn của con người trước một không gian mênh mông, rộng lớn có thể bao trùm cả vũ trụ.

    Và quả thực trước một dòng tràng giang như thế, thi nhân đã không giấu nổi nỗi buồn mà cứ để nó lan tỏa khắp mọi không gian, bao trùm cả vũ trụ.

    Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

    Con thuyền xuôi mái nước song song

    Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

    Củi một cành khô lạc mấy dòng.

    Khổ thơ đầu đã mở ra một khung cảnh tràng giang mênh mông, rộng lớn đối lập hoàn toàn với những thứ nhỏ bé như sóng, con thuyền, cành củi khô. Những sự vật ấy đồng thời cũng gợi nên nỗi buồn mênh mang theo sóng nước. Qua các từ gợn, buồn điệp điệp, nước song song, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng nỗi buồn càng trải dài, lan tỏa khắp cả mặt sông dài rộng. Ở đây tuy có sự vật nhưng mọi thứ lại chẳng hề gắn kết, nhất là thuyền và nước, hai thứ vốn dĩ không tách rời vậy mà thuyền về, nước lại khiến nỗi sầu, nỗi buồn như chia ra thành trăm ngả. Tuy nhiên điểm nhấn rõ nét nhất của khổ thơ chính là hình ảnh củi một cành khô. Sự vật vốn đã chẳng còn sức sống, lại nổi trôi vô định trên dòng sông đã vẽ một nét hiện đại để khắc họa nỗi buồn. Mà hơn nữa nó còn lạc mấy dòng thì không chỉ là nỗi buồn, nó hiện hữu cả nỗi cô đơn. Đó phải chăng là sự hiện thân cho kiếp người nhỏ bé, lênh đênh, bất định giữa dòng đời của chính tác giả?

    Đến khổ thơ thứ hai, điểm nhìn của nhân vật trữ tình đã xa hơn, khung cảnh trên sông được hướng vào chiếc cồn nhỏ, vào bầu trời và khắp cả dòng sông.

    Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

    Đâu tiếng làng xe vãn chợ chiều

    Nắng xuống trời lên sâu chót vót

    Sông dài trời rộng bến cô liêu

    Nhưng dường như không gian cũng không có mấy thay đổi, thậm chí hai từ láy lơ thơ, đìu hiu lại càng khắc họa sự vắng lặng, yên ắng, quạnh hiu. Đâu đó (hay là đâu có) có âm thanh của sự sống? Dẫu có có đi chăng nữa thì tiếng làng xa vãn chợ chiều cũng chẳng làm cho nơi đây nhộn nhịp hơn, thậm chí càng tô đậm thêm sự tĩnh lặng. Bởi vậy xung quanh chỉ còn là nắng trên trời, sông trước mặt, thứ xuống thứ lên, thứ dài, thứ rộng mà dường như vốn đã xa nay lại càng xa hơn. Cách sáng tạo từ sâu chót vót đã giúp tác giả miêu tả được khoảng cách giữa trời với sông vừa có độ cao vừa có độ sâu, khiến không gian như mở ra ba chiều, khuếch tán rộng hết mức ở toàn vũ trụ. Chỉ còn lại trơ trọi bến cô liêu thì chúng ta mới biết nỗi buồn đã rộng khắp mọi không gian và nỗi cô đơn càng ngày càng lớn. Lúc này thi nhân không còn đối diện với dòng sông như ở khổ trên nữa mà hoàn toàn bị choáng ngợp, quá nhỏ bé trước không gian vũ trụ như thế.

    Rồi ánh mắt thi nhân lại tiếp tục kiếm tìm. Hình như nhân vật trữ tình “lục lọi” đâu đây một chút sự sống của con người.

    Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

    Mênh mông không một chuyến đò ngang

    Không cầu gợi chút niềm thân mật

    Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

    Lần này hiện lên là hình ảnh hàng bèo quen thuộc. Trong thơ xưa nó chính là hiện thân cho kiếp người trôi nổi, lênh đênh giữa dòng đời. Nhưng chỉ là cánh bèo, chứ không phải hàng nối hàng bèo như ở đây. Vâng, không biết bao nhiêu hàng bèo như thế, nối tiếp nhau trôi dạt về đâu? Có nỗi buồn, sự bơ vơ, lạc lõng không phải của một cành củi khô nữa mà là của cả một thế hệ con người chẳng biết sẽ đi đâu về đâu? Hình ảnh thơ đơn giản nhưng gói gém được tâm sự của cả bao nhiêu thân phận con người lúc bây giờ. Bởi vậy nhìn xung quanh đâu cũng thấy mênh mông, đâu cũng không thấy có dấu hiệu của sự sống nào hết. Điệp từ phủ định càng làm cho con người chẳng có chút bóng dáng nào hiện hữu nơi đây. Không một chuyến đò, không một cây cầu thì nỗi niềm thân mật dù một chút thôi cũng thực khó. Thế là chỉ còn lại thiên nhiên tiếp xúc với thiên nhiên. Hai từ lặng lẽ có chút ngậm ngùi vì nhìn hết cảnh trí dòng sông từ trên cao xuống thấp, xa đến gần mà rồi cũng chỉ còn lại những bờ xanh, bãi vàng nối tiếp nhau. Không gian vì thế lại tiếp tục thêm phần mênh mông bát ngát. Nỗi cô đơn, sự buồn bã của con người chưa có dấu hiệu vơi cạn, thu hẹp lại theo bất cứ một chiều nào.

    Cả ba khổ thơ là một bức tranh thiên nhiên thấm đẫm những phong vị cổ điển xen lẫn chút hiện đại đầy độc đáo để khắc họa một không gian vô cùng, vô tận. Tất cả cũng chỉ để chứa đựng một nỗi buồn, nỗi cô đơn không giới hạn của lòng người. Bao nhiêu hi vọng dồn vào khổ cuối, để cái tôi vơi bớt đi phần nào những chất chứa ưu tư. Vậy mà:

    Lớp lớp mây cao, đùn núi bạc

    Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

    Lòng quê dợn dợn vời con nước

    Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

    Khung cảnh thiên nhiên lại có sự thay đổi, nhưng lần này không phải là dòng sông mênh mông, vắng lặng như những khổ trên mà thay vào đó là sự tráng lệ, hùng vĩ nổi bật trên nền trời chiều. Vẫn sử dụng những thi liệu cổ quen thuộc là mây, chim, nhà thơ vẽ lên nền trời ấy những đường nét, màu sắc thật sinh động. Đó là lớp lớp những áng mây ánh bạc đang đùn trên bầu trời như những ngọn núi. Đặc biệt là cánh chim chao nghiêng được coi là một khoảnh khắc mà thâu tóm được sự chuyển động của hai sự vật. Chẳng biết cánh chim nhỏ ấy nghiêng nhẹ đôi cánh một cái là bóng chiều sa xuống hay bóng chiều đổ mà đè nặng lên cánh chim khiến nó ngả nghiêng? Nhưng khoảnh khắc đồng hiện này đã tạo nên một sự dịch chuyển rất mau lẹ cả về không gian lẫn thời gian. Và thêm một lần nữa lòng người không thể nào xua tan được sự bủa vây của ngoại cảnh. Không gian có thay đổi, có tráng lệ đến đâu trong lòng thi nhân vẫn cảm thấy trống trải. Nhưng lần này nỗi cô đơn đã hóa nỗi nhờ nhà. Biết bao nhiêu cảnh trí trên trời, dưới sông đều dồn về cảm xúc dợn dợn. Từ láy nguyên sáng tạo này của nhà thơ đã khắc hoặc rất chân thực một nỗi niềm bâng khuâng, da diết của “lòng quê” khi nó hô ứng với cụm từ “vời con nước”. Bao nhiêu nỗi buồn rồi cũng trào dâng lên thành nỗi nhớ quê hương. Nhưng lạ thay, ở ngay trên mảnh đất quê hương mà lại thấy nhớ quê hương đến như vậy. Thế mà quê hương lại chẳng còn, đó là nỗi niềm chung của cả một thế hệ các nhà thơ mới trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ. Cảm giác xa quê hương, “thiếu quê hương” trở thành sự rung cảm sẵn có mà chẳng cần đến khói sóng hoàng hôn như thi sĩ Thôi Hiệu đời Đường mới gợi nên nỗi nhớ quê nhà của thi nhân. Không cần vịn vào đâu, tự khắc nỗi nhớ ấy đong đầy, da diết, tự thân nó đã bộc lộ một tình yêu thắm thiết, trĩu nặng với quê hương.

    Có hai thứ ấn tượng còn đọng lại sau khi đọc xong bài thơ là không gian vô cùng, vô tận của ngoại cảnh và nỗi buồn, nỗi cô đơn không giới hạn của lòng người. Cả hai như cùng kích ứng để càng rộng, càng lớn thì càng buồn, càng cô đơn khiến bài thơ như chất chứa, tích tụ nỗi sầu của cả ngàn năm lại vậy. Nhưng vượt lên trên hết, bút pháp đặc trưng và nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và hiện đại đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp dẫu có buồn. Song người đọc vẫn nhìn thấy một tình yêu quê hương đất nước thầm kín hiện lên trong Tràng giang.

Bài văn mẫu 3

    Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ cả vạn lí sầu. Trước cách mạng hồn thơ ông mang nỗi sầu bi của thời đại. Tác phẩm Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho nỗi buồn miên man của nhà thơ trước cuộc đời, trước thời đại. Ẩn sau nỗi buồn ấy còn là lời tâm sự, lòng yêu nước kín đáo.

    Nhan đề của bài thơ gồm hai vần “ang” đây là âm mở, gợi nên sự mênh mông, rộng lớn. Không gian dòng sông hiện ra không chỉ là một con sông bình thường mà nó còn là con sông lớn mang tầm vóc vũ trụ. Không chỉ vậy, sử dụng từ Hán Việt còn khiến cho bài thơ mang âm hưởng cổ kính, mang tính khái quát.

    Không phải bất cứ tác phẩm nào cũng có lời đề từ, khi đề từ xuất hiện nó thường là một gợi dẫn có ý nghĩa bao quát toàn bộ nội dung tác phẩm. Trước khi bắt đầu bài thơ Tràng giang là lời đề từ do chính Huy Cận sáng tác:

    Buâng khuâng trời rộng nhớ sông dài

    Câu thơ đề tự gợi ra không gian vũ trụ rộng lớn, bát ngát mở ra cả chiều rộng và chiều cao. Trước không gian ấy con người cảm thấy bơ vơ, lạc lòng, đây cũng là cảm xúc của biết bao thế hệ thi nhân xưa nay. Câu thơ đề từ đã khơi mạch cảm xúc chung của bài thơ.

    Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ thấm đượm nỗi buồn:

    Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

    Con thuyền xuôi mái nước song song

    Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

    Củi một cành khô lạc mấy dòng

    Những con sóng lăn tăn gợn theo chiều gió thổi, không gian ấy hoàn toàn yên tĩnh. Nhưng ở đây không chỉ có thiên nhiên mà ẩn khuất còn có tâm trạng của con người “buồn điệp điệp”, nỗi buồn không còn vô hình mà hữu hình qua từ láy “điệp điệp”. Nỗi buồn ấy tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, nó tuy nhẹ nhàng mà thấm đẫm, mà lan tỏa trong lòng con người. Nổi bật trong không gian đó là hình ảnh con thuyền xuôi mái, lênh đênh, phiêu dạt. Giữa dòng tràng giang con thuyền trở nên bé nhỏ, đơn côi tựa như chính hình ảnh con người. Từ “xuôi mái” cho thấy trạng thái buông xuôi, phó mặc cho dòng nước xô đẩy. Đó phải chăng cũng chính là tâm trạng của những con người Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Thuyền cứ trôi, cứ về để lại nỗi buồn mênh mang, vô hạn cho người ở lại – nước. Và hiển hiện trong hiện thực đó chính là những cành củi khô đơn độc, lẻ loi. Đảo ngữ “củi” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh sự vô nghĩa, tầm thường, không chỉ vậy đó còn là cảnh củi khô không còn sức sống lạc trôi giữa dòng đời vô định. Hình ảnh “củi khô” ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa sự mênh mông của dòng đời. Đồng thời còn ẩn dụ cho cái tôi lạc loài, bơ vơ trong Thơ mới.

    Huy Cận di chuyển điểm nhìn về gần hơn với những bãi, những cồn ở ngay trước mắt mình. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” là một hình ảnh rất thực ở bãi giữa sông Hồng, kết hợp với hai từ láy “lơ thơ” “đìu hiu” gợi nên sự thưa thớt, vắng vẻ, hiu quạnh. Trong không gian ấy tác giả cố gắng đi tìm hơi ấm cuộc sống, là tiếng chợ xa, nhưng “đâu” có thể tìm thấy được, không gian là sự tĩnh lặng đến tuyệt đối. Nỗi buồn càng được tô đậm hơn nữa khi không gian được mở rộng đến vô cùng, nắng xuống chiều lên, sông dài – trời rộng, kết hợp với từ “sâu chót vót” đã mở rộng không gian ra cả ba phía: rộng, cao, sâu. Khắc họa nỗi cô đơn, sự nhỏ bé đến cực điểm của con người trước không gian vũ trụ.

    Đôi mắt Huy Cận lại tìm kiếm, lại hướng ra vô cùng và thu lại chỉ có:

    Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

    Mênh mông không một chuyến đò ngang

    Không cần gợi chút niềm thân mật

    Lặng lẽ bời xanh tiếp bãi vàng.

    Những cánh bèo lênh đênh, vô định nối tiếp nhau chảy trôi, sự chảy trôi không mục đích, không phương hướng, cũng như những khiếp người nhỏ bé, đơn độc lúc bấy giờ. Không gian sông nước mênh mông không có lấy một chuyến đò qua sông. Đò ấy không đơn thuần là phương tiện trung chuyển con người mà nó còn là phương tiện kết nối tình cảm. Nhưng tất cả đã bị phủ định một cách tuyệt đối: không một, không cầu, không còn một chút tình đời, tình người nào còn tồn tại ở đây nữa.

    Khổ thơ cuối cùng vẽ ra bức tranh không gian nhiều tầng bậc, ông hướng mắt lên cao: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”. Bầu trời với những đám mây lớn được phản chiếu dưới ánh mặt trời trở nên hùng vĩ, tráng lệ hơn. Động từ “đùn” cho thấy những đám mây ùn ùn kéo về, dựng lên những dãy núi tráng lệ. Và giữa lừng chừng trời là cánh chim nhỏ bé, đơn độc, cảm tưởng như nó đã bị không gian nuốt chửng. Trước cảnh thiên nhiên cô tịch, lặng lẽ, nỗi nhớ quê hương trong ông bỗng da diết, cồn cào:

    Lòng quê dờn dợn vợi con nước

    Không khói hoàng hôn cùng nhớ nhà.

    Câu thơ làm ta bất giác nhơ đến câu thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thưởng sử nhân sầu”. Cũng đều là nỗi bi ai, là nỗi nhớ quê khắc khoải nhưng Huy Cận đã có cách thể hiện thật mới, thật lạ. Lòng quê “dờn dợn” tức cứ tăng, cứ mạnh mãi lên, dường như sóng lòng đang trải ra cùng sóng nước. Nỗi nhớ quê hương luôn thường trực, dai dẳng. Đây cũng là biểu hiện kín đáo của lòng yêu nước.

    Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mênh mông và quạnh hiu, hoang vắng. Qua đó còn cho ta thấy một cái tôi bơ vợ, lạc lõng, một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời bài thơ cùng thể hiện lòng yêu nước kín đáo mà vô cùng sâu lắng.

Bài văn mẫu 4

    Lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài", là cảm hứng chủ đạo của Huy Cận trong bài thơ "Tràng giang" đã khắc chạm vào thời gian và hồn người trong hơn nửa thế kỉ qua. "Tràng giang" là bài thơ tuyệt bút in trong tập "Lửa thiêng" xuất bản năm 1940. Theo tác giả cho biết, vào một buổi chiều thu 1939, khi còn là sinh viên trường Đại học Canh nông, Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm, ngắm dòng sông Hồng mênh mông, lòng dào dạt xúc động mà viết bài thơ này. Đó là những cảm nhận vể tràng giang và một nỗi buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ đứng trước cảnh "Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".

    Khổ thơ đầu nói về "sóng gợn", con thuyền và cành củi khô trôi trên dòng sông:

    "Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

    Con thuyền xuôi mái nước song song".

    Tràng giang - sông dài và lớn, như Hoàng Hà, Trường Giang,... ở đây là sông Hồng thân yêu, dòng sông "đỏ nặng phù sa". Sóng gợn lăn tăn, lớp lớp "buồn điệp điệp", như vỗ vào, thấm sâu vào lòng người bao ám ảnh. Con thuyền nhỏ bé, trôi xuôi dòng, buông mái chèo "nước song song". Cặp từ láy: "điệp điệp" và "song song" gợi tả một nỗi buồn thấm thía, xa vắng và mơ hồ. Hình ảnh cành củi khô vừa hiện thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. "Củi một cành khô" nhỏ bé, tầm thường từ rừng xa trôi về đã được đem vào thơ, tạo nên "cái vị ý mới mẻ" của Thơ mới. Nó còn biểu tượng cho một kiếp người phù du, bé nhỏ trôi nổi trên dòng đời vô định. Buồn thương thế, biết đi đâu về đâu ?

    "Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;

    Củi một cành khô lạc mấy dòng".

    Phép đối được sử dụng sáng tạo, chỉ đối ý, đối hình mà vần thơ vẫn cân xứng hài hoà. Con thuyền và cành củi khô đang cùng trôi nổi trên tràng giang. Huy Cận đã nói nhiều đến "vạn cổ sầu", "buồn thiên thu", ở đây ông lại viết "sầu trâm ngả". Cả cõi dương và cõi âm? "Sầu trăm ngả" như toả rộng và phủ lên những kiếp người đau thương. Các số từ trong ba vần thơ "sầu trăm ngả", "củi một cành khô", "lạc mấy dòng" đã làm thấu rõ cái ám ảnh về kiếp người thì nhỏ bé, hữu hạn, sự đau khổ, sầu thương thì to lớn, vô hạn.

    Nỗi buồn vô hạn ấy lại được miêu tả qua một không gian bao la. Cái bé nhỏ tương phản với cái mênh mông, vô cùng. Cồn thì nhỏ bé thưa thớt, buồn bã: "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu". Vần lưng: "nhỏ - gió", kết hợp với láy âm: "lơ thơ" và "đìu hiu", âm hưởng câu thơ như trĩu lòng người về một nổi buồn hiu hắt, cô quạnh. Nghệ thuật sử dụng từ láy tài ba, gợi lên màu sắc cổ kính, dẫn hồn người đọc trở về với cổ thi: "Non Kì quạnh quẽ trăng treo - Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò" (Chinh phụ ngâm), "Lơ thơ tơ liễu buông mành..." (Truyện Kiều).

    Chợ chiều vốn đã buồn xao xác, vãn chợ chiều thì cái buồn xao xạc xa vắng lại nhiều lần nhân lên. Thế mà giờ đây cái âm thanh xao xác "vãn chợ chiều" từ một làng xa cũng không còn nữa. Từ "đâu" biểu lộ cái ngơ ngác của thi nhân với một nỗi buồn cô quạnh chứa chất trong lòng:

    "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều".

    Bầu trời và lòng sông là không gian hai chiều. Trời cao thăm thẳm in xuống lòng sông. Người ta thường nói: "cao chót vót", "sâu thăm thẳm", nhưng Huy Cận lại viết: "sâu chót vót" để làm nổi bật hai tiểu đối: "nắng xuống" và "trời lên" kia, cái bao la, mênh mông đều rợn ngợp của dòng sông, bầu trời và bến đò xa vắng:

    "Nắng xuống trời lên sâu chót vót;

    Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".

    "Tràng giang" là thi phẩm đại diện sáng chói, lung linh nhất của "Lửa thiêng". Nói đến "Tràng giang" là nói đến "Lửa thiêng". Nói đến "Lửa thiêng" là nói đến nỗi buồn mênh mang, bao trùm không gian và thời gian, dường như ngầm chất chứa "cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế!" (Xuân Diệu).

    Câu hát "bèo dạt mây trôi" trong dân ca quan họ từng gợi lên trong hồn ta nhiều cảm xúc mơ hồ. Khổ thứ ba, Huy Cận lấy cánh bèo trôi dạt trên tràng giang làm biểu tượng cho sự hợp tan, chia lìa trên dòng đời của những kiếp người truân chuyên lưu lạc:

    "Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;

    Mênh mông không một chuyến đò ngang.

    Không cầu gợi chút niềm thân mật,

    Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng".

    Lặng lẽ bở xanh tiếp bãi vàng".

    Giữa cái bao la trời đất, sông nước hầu như không có bóng dáng con người. Câu thơ phủ định bằng điệp từ "không" liên tiếp: "không một chuyến đò ngang", "không cầu gợi chút niềm thân mật" và chỉ có một màu vàng của bãi tiếp nối với màu xanh của bờ vô tận. Cái buồn và cô đom của một tâm trạng được diễn tả trong một không gian "mênh mông" và "lặng lẽ'.

    Khổ thơ cuối nói về khoảnh khắc hoàng hôn. Hoàng hôn trong thơ cổ thường gắn liền với tình quê, cố hương:

    "Dừng chân đứng lại: trời non nước

    Một mảnh tình riêng ta với ta".

    (Qua Đèo Ngang)

    Thôi Hiệu, nhà thơ lỗi lạc đời Đường, đứng trên lầu Hoàng Hạc nhìn khói sóng phủ mờ trên sông buổi hoàng hôn mà lòng thổn thức:

    "Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

    Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?".

    (Tản Đà dịch)

    Huy Cận lựa chọn một số thi liệu đầy chất thơ để diễn tả một tình quê vơi đầy: một cánh chim chiều, lớp lớp núi mây bạc. Không có khói sóng mà vẫn thương nhớ quê nhà da diết:

    "Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

    Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

    Lòng quê dợn dợn vời con nước,

    Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà".

    Câu thơ nên hoạ, đầy hình tượng và dạt dào cảm xúc. Hồn thơ Đường như thấm vào câu chữ. Ai đã từng xa quê, trong khoảnh khắc hoàng hôn mới thấy hết cái hay (đẹp mà buồn) trong những bài thơ nói về tình quê, lòng quê. "Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng" (Truyện Kiều),..: "Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ - Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn" (Chiều hôm nhớ nhà). - Từ cảm nhận ấy, ta như bâng khuâng nhập hồn mình vào "Tràng giang", lặng lẽ trầm ngâm nhìn theo "vời con nước" mà "nhớ nhà", nhớ quê hương. Huy Cận không cần có khói sóng mà lòng quê vẫn "dợn dợn", vẫn "nhớ nhà". Rõ ràng tình quê trong Huy Cận cháy bỏng và da diết vô cùng. Đúng là thơ đích thực nâng đỡ lòng ngưòi, khơi dậy những gì đẹp đẽ nhất tiềm ẩn nơi đáy sâu tâm hồn ngưòi để vươn tới cái cao cả. Đọc "Tràng giang" ta cảm nhận sâu thêm chân lí ấy.

    "Tràng giang" là một trong những bài thơ hay nhất của Huy Cận trong tập "Lửa thiêng", ngọn lửa vĩnh cửu toả sáng một hồn thơ đẹp. Thi sĩ đã chọn thể thơ thất ngôn với bốn khổ thơ, như một bức hoạ tứ bình tuyệt tác. Một nỗi buồn thấm thía được diễn tả lớp lớp tầng tầng qua những vần thơ mĩ lệ, hàm súc. "Tràng giang" là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng người mới có "Đất nở hoa" và những "Bài thơ cuộc đời" đằm thắm, nồng hậu... sau này. Đọc "Tràng giang" để ta thêm yêu thêm nhớ đất trời sông núi quê hương.