Đề bài: Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương.

Dàn ý mẫu

1, Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

    + Viễn Phương là một trong số tác giả ra nhập sớm nhất vào đội ngũ văn nghệ sĩ thời kì kháng chiến chống Mĩ.

    + Bài thơ được sáng tác năm 1976, khi nhà thơ cùng đoàn đại biểu nhân dân ra thăm miền Bắc và đến viếng lăng Bác ngay sau khi lăng được xây dựng xong.

2, Thân bài

   a, Khi vừa đặt chân vào lăng Bác

- Mở đầu bài thơ: câu chào đầy xúc động của tác giả

    + Đại từ nhân xưng “con”: tạo cảm giác gần gũi thân thiết và tình cảm yêu mến, kính trọng của người dân với Bác.

    + Giới thiệu từ “miền Nam”: từ xa tới, từ nơi bom đạn chiến tranh, nơi Bác luôn đau đáu lo lắng trăn trở, nay đã giành được độc lập.

    + “Thăm”: gợi tình cảm chân thành, thân thuộc như con dành cho cha; giảm đi nỗi nặng nề đau thương của việc đến viếng Người đã ra đi.

⇒ câu thơ chứa đựng bao tình cảm chân thành, yêu kính cùng sự xúc động như thỏa nỗi mong ước của tác giả.

- Cảnh đầu tiên trông thấy là hàng tre xanh: loại cây quen thuộc với làng quê Việt Nam

    + Hàng tre đứng trong sương: cảnh vật vừa thực vừa ảo.

    + Hàng tre “xanh xanh Việt Nam”: biểu tượng cho sự yên bình.

    + Thành ngữ “bão táp mưa sa”: vừa nói về sự khắc nghiệt của thời tiết, vừa ẩn dụ cho những khó khăn mà Việt Nam đã gặp phải

   + Dáng tre “đứng thẳng hàng”: biểu tượng cho tính kiên cường, bất khuất của dân tộc.

⇒ Hàng tre như những người lính gác hàng ngày canh giữ cho giấc ngủ của Bác; khổ thơ đầu vừa bày tỏ sự xúc động của tác giả, vừa thể hiện niềm tự hào dân tộc đã giành được độc lập tự do.

   b, Khổ thơ thứ 2 - tình cảm của cả dân tộc dành cho Bác

- Hình ảnh Mặt trời:

    + Mặt trời đi qua trên lăng: vật thể vĩnh hằng của vũ trụ, giúp duy trì sự sống cho muôn loài trên trái đất.

    + Mặt trời trong lăng: ẩn dụ về Bác Hồ, ví Bác như là mặt trời của dân tộc Việt Nam, thể hiện sự sự ngưỡng mộ, biết ơn đối với Bác.

- Hình ảnh dòng người - tràng hoa mang 2 ý nghĩa:

    + Dòng người đến viếng thăm Bác mang theo hoa để tỏ lòng thương nhớ.

    + Dòng người thành kính đến viếng Bác chính là những tràng hoa đẹp nhất tưởng nhớ Người.

⇒ Sử dụng biện pháp ẩn dụ, hình ảnh đa nghĩa: mặt trời, tràng hoa; lặp từ “ngày ngày” tạo cảm giác nối dài, vô tận, thể hiện niềm kính yêu, thương nhớ của dân tộc dành cho Bác là vô hạn.

   c, Cảm xúc của tác giả khi trông thấy Bác

- Bác như đang trong “giấc ngủ bình yên”: cách nói giảm nói tránh sự ra đi của Bác, thể hiện nỗi xúc động thương tiếc của tác giả.

- Hình ảnh vầng trăng, trời xanh: không gian vĩnh hằng

    + Trăng vừa biểu tượng cho vẻ đẹp nhân cách thanh cao của Bác, vừa là người tri kỉ theo Bác từ những năm tháng còn sống cho tới lúc Người đi vào cõi vĩnh hằng.

    + Trời xanh “mãi mãi”: tấm lòng, đạo đức của Người cao vợi, vẫn mãi xanh trong cao cả dù Người đã ra đi

- Cảm xúc dâng trào: nghe nhói ở trong tim. Dù khẳng định lí tưởng, tâm hồn của Bác còn mãi, dù tấm lòng người dân dành cho Bác là vô hạn, nhưng nhà thơ vẫn đau lòng vô hạn trước sự thật Bác không còn nữa.

⇒ Khổ thơ tiếp tục sử dụng hệ thống hình ảnh ẩn dụ tượng trưng, giọng thơ lắng đọng giàu cảm xúc.

   d, Khổ thơ cuối là ước nguyện của tác giả

- Hoàn cảnh: tác giả phải trở lại miền Nam, “thương trào nước mắt”: sự lưu luyến không nỡ xa Bác.

- Điệp ngữ “muốn làm”: thể hiện tâm trạng lưu luyến, day dứt cùng sự xúc động dâng trào của tác giả, ao ước biến thành đóa hoa, con chim, cây tre trung hiếu mãi ở lại bên Bác, canh giấc ngủ nghìn thu của người.

- Nghệ thuật khổ thơ:

    + Sử dụng điệp ngữ nhấn mạnh cảm xúc “muốn làm”.

    + Nhắc lại hình ảnh cây tre: tác giả cụ thể hóa niềm kính yêu của dân tộc, của bản thân thành hình ảnh cây tre “trung hiếu”, ngược lại với sự khái quát cây tre biểu tượng cho cả dân tộc anh dũng kiên cường ở khổ thơ 1.

⇒ Tạo cho nhịp thơ thành một vòng tròn cảm xúc, đề cao phẩm chất trung hiếu của dân tộc với Bác, với Đảng.

3, Kết bài

   Tổng kết về tác phẩm:

- Bài thơ phản ánh tâm trạng chung của những người con Việt Nam khi đến viếng lăng Bác.

- Giọng thơ trang nghiêm, tự hào, xúc động; sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, so sánh làm nổi bật lên vẻ đẹp nhân cách Hồ Chí Minh và sự yêu kính của người dân.

Bài văn mẫu 1

   "Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà

   Miền Nam mong Bác nỗi mong cha."

    Nỗi mong chờ và ao ước của đồng bào miền Nam được Bác vào thăm không còn nữa! Người đã ra đi mãi mãi để lại bao niềm nuối tiếc trong lòng mỗi người dân Nam Bộ, Viễn Phương - nhà thơ trẻ miền Nam - được vinh dự ra thăm lăng Bác. Tác giả đã thay mặt nhân dân miền Nam bày tỏ tình cảm của mình khi đứng trước người cha già dân tộc. Xúc dộng tận đáy lòng, Viễn Phương viết bài "Viếng lăng Bác". Đây là bài thơ gợi cho em niềm cảm xúc sâu xa nhất.

    Cảm xúc đầu tiên mà em cảm nhận được từ bài thơ có lẽ vì bài thơ thể hiện được tình cảm chân thành và giản dị của đồng bào Nam bộ muốn nhắn gửi, nhờ Viền Phương nói hộ cùng Bác nỗi mong chờ và mong đợi Bác vào thăm.

    Xúc động dạt dào, mở đầu bài thơ, tác giả viết:

   "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

   Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

   Ôi hàng tre! Xanh xanh Việt Nam"

    Tình cảm của nhà thơ rất chân thành và cũng rất gần gũi. Đối với người chiến sĩ miền Nam được ra thăm lăng Bác là một điều rất vinh dự. Nhưng không vì thế mà giảm mất tình yêu thương của tác giả đối với Bác. Câu thơ ấm áp tình người với cách xưng hô thân mật "con". Bởi tất cả mọi người đều là những người con trung hiếu của Bác, xem Bác như 'là cha, là bác, là anh". Tình người bao la, giản dị, tình dân tộc đằm thắm mến yêu. Đoạn thơ đã tạo nên một không khí ấm áp, gần gũi. Tác giả khéo léo chọn hình ảnh cây tre, hình ảnh thân thuộc của đất nước để mờ bài thơ rộng hơn. xa hơn nhưng cũng gần gũi hơn bao giờ hết. Nhắc đến hình ảnh cây tre, ta lại nghĩ tới dất nước, tới dân tộc Việt Nam với bao đức tính cao quí. Tre anh dũng trong chiến đấu, tre yêu thương giúp đỡ dân tộc, tre hi sinh cho thế hệ mai sau và tre cũng rất anh hùng bất khuất:

   "Nòi tre đâu chịu mọc cong

   Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường"

    Tre đã vất vả, chịu nhiều nắng mưa nhưng vần hiên ngang đứng giữa trời xanh, như dân tộc ta không bao giờ khuất phục bọn giặc cướp nước "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng".

    Theo đoàn người, tác giả vào thăm lăng Bác, nhà thơ nhìn thấy:

   "Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

   Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ."

    "Mặt trời" ngày ngày đi qua trên lăng là mặt trời của đất, nguồn sáng lớn nhất, rực rỡ và vĩnh viễn trên thế gian. Nhưng mặt trời ấy còn thấy và nhận ra một mặt trời khác, một "'mặt trời trong lăng" rất đỏ. Mặt trời trên cao được nhân hóa, nhìn mặt trời trong lăng bằng đôi mắt của mặt trời. Một hình ảnh chứa chan bao tôn kính đối với Bác Hồ vĩ đại. Bàng hình ảnh ẩn dụ, nhà thơ đã ví Bác là mặt trời. Người là mặt trời đỏ rực màu cách mạng sẽ mãi mãi chiếu sáng đường chúng ta đi bằng sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Đây là nét nghệ thuật sáng tạo cùa tác giả. Độc đáo hơn, nhà thơ còn sáng tạo một hình ảnh khác nữa để ca ngợi Bác:

   "Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

   Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân."

    Hình ảnh những dòng người đi trong thương nhớ kết thành những tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả thực so sánh những dòng người xếp thành hàng dài vào lãng Bác trông như những tràng hoa vô tận. Nó còn có nghĩa tượng trưng: Cuộc dời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác. Những bông hoa tươi thắm đó đang đến dâng lên Người những gì tốt đẹp nhất. "Dâng bẩy mươi chín mùa xuân". Đây là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng. Con người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã làm ra những mùa xuân cho đất nước, cho con người. Nhà thơ vào lăng, được nhìn thấy Bác nằm trong giấc ngủ bình yên giữa một vùng ánh sáng nhè nhẹ dịu hiền. Ánh sáng ấy nơi Bác nẳm được nhà thơ miêu tả như ánh sáng một vầng trăng hiền dịu:

   "Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

   Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

   Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

   Mà sao nghe nhói ở trong tim!"

    Ánh sáng của những ngọn đèn mờ ảo trong lăng gợi nhà thơ sự liên tưởng thật là thú vị "ánh trăng". Tác giả đã thế hiện sự am hiểu của mình về Bác qua sự liên tường kì lạ đó. Bởi trăng với Bác từng là đôi bạn tri âm tri kỉ. Ánh trăng bát ngát ngoài trời đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến để ru giấc ngủ ngàn thu cho Người. Với hình ảnh "vầng trăng sáng dịu hiền" dụng ý nhà thơ còn muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Người có lúc như mặt trời ấm áp, có lúc dịu hiền như ánh trăng rằm. Bác của chúng là là vậy. "Mặt trời", "vầng trăng", "trời xanh" đó là những cái mênh mông bao la của vũ trụ được nhà thơ ví như cái bao la rộng lớn trong tình thương của Bác. Đó cũng là biểu hiện sự vĩ đại, rực rỡ. cao siêu của con người và sự nghiệp cùa Bác. Biết rằng Bác vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng và tâm trí nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao. Nhưng nhà thơ vẫn không khỏi thấy nhói đau trong lòng khi đứng trước thi thể của Người: "Mà sao nghe nhói ở trong tim". Nỗi đau như hàng ngàn mũi kim dâm vào trái tim thổn thức của tác giả. Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.

    Còn đứng trong lãng Bác, nhưng khi nghĩ đến lúc phải xa Bác, Viễn Phương thấy bịn rịn không muốn dứt. Tình cảm của nhà thơ trong suốt thời gian trên luôn sâu lắng, đau lặng lẽ nhưng đến giây phút này, Viễn Phương không thể nào ngăn được nữa. để cho tình cảm theo dòng nước mắt tuôn trào, dâng lên cao và tha thiết nhất "mơ về miền Nam thương trào nước mắt". Chỉ nghĩ đến việc về miền Nam, tác giả cũng đã "trào nước mắt", luyến tiếc khi chia tay, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ, ở câu thơ này, tác giả không sử dụng một nghệ thuật gì cả, chỉ là lời nói giản dị, là tình thương sâu lắng tự tấm lòng nhưng lại làm cho ta xúc động, bài thơ thêm giàu cảm xúc. Một cách nói không hoa mĩ, chân thành như người dân Nam bộ, nhưng lại lắng trong đó nỗi thương yêu đau đớn không có gì có thể nói và tả được Tác giả thay mặt cho nhân dân miền Nam .bày tỏ niểm thương tiếc vô hạn đối với vị cha già dân tộc. Câu nói giản dị ấy làm người đọc thêm hiểu và đồng cảm với cảm xúc của Viễn Phương, bởi lời nói đó đều xuất phát từ muôn triệu trái tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá. Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa một lần nào gặp Bác:

   "Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

   Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

   Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này."

    Từ ngữ "muốn làm" được lặp di lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ thể hiện được ước muốn, sự tự nguyện của tác giả. Hình ảnh cây tre lại xuất hiện khép bài thơ lại một cách khéo léo. Một mong ước chân thành của nhà thơ. Tác giả muốn làm con chim hằng ngày ca hót cho Bác yên ngủ, làm đóa hoa tỏa hương thơm ngào ngạt, cùng muôn đóa hoa khác làm đẹp nơi Bác nghỉ. Và vui sướng nhất khi được làm cây tre trung hiếu đứng mãi bên Bác canh từng giấc ngú của Người. Cánh hoa ấy, tiếng chim hót và cây tre trung hiếu ấy giữ mãi cho Người giấc ngủ bình yên. Viễn Phương nói lên mong ước của mình cũng như là ước nguyện của tất cả chúng ta muốn được gần Bác để được lớn lên một chút:

   "Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta

   Ta bỗng lớn ở bên người một chút."

    Bác của chúng ta là vậy. Người giàu tình thương yêu, giàu đức hi sinh và đời Người thì vô cùng giản dị. Đất nước ta mất Bác như mất người cha vĩ đại, người cha luôn luôn dành cho nhân loại tình thương vô bờ bến.

    Bài thơ "Viếng lăng Bác" thật giàu hình ảnh, giàu cảm xúc. mấy ai đọc bài thơ mà không thấy rung động trong lòng. Bằng cách sử dụng điêu luyện những biện pháp tu từ một cách sáng tạo, tác giả đã thể hiện tình cảm ngọt ngào đằm thắm lại rất giản dị chân thành đối với Bác. Nhà thơ đã truyền dược cảm xúc của mình đến với người đọc chính bởi cảm xúc của cả đồng bào Nam bộ nói riêng cùa dân tộc nói chung. Chúng ta những cháu ngoan của Bác Hồ cũng xin nguyện như Viễn Phương làm cây tre trung hiếu, làm bông hoa đẹp, làm tiếng chim hay và làm muôn ngàn công việc tốt để dâng lên Người.

Bài văn mẫu 2

    Sự vĩ đại, công lao to lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam cả đời nhân dân ta vẫn luôn ghi nhớ, biết ơn. Viết về đức tính, tấm lòng của Bác là một mảng đề tài lớn trong sáng tác thơ ca. Và ngay cả khi Bác mất đi, nỗi tiếc thương vô hạn, đã dấy lên niềm biết ơn, kính trọng sâu sắc với Bác. Viếng lăng Bác của Viễn Phương là bài thơ được làm trên mạch cảm xúc ấy.

    Trước sự ra đi của Bác, Tố Hữu đã từng thốt lên vô cùng đau đớn:

    Bác đã xa rồi sao Bác ơi

    Mùa thu đang nắng, đẹp xanh trời

    Dù Viễn Phương không viết bài thơ ngay thời điểm Bác qua đời, nhưng cảm xúc vẫn vẹn nguyên, mãnh liệt. Tác phẩm được viết vào năm 1976, khi đất nước đã giải phóng, và lăng chủ tích Hồ Chí Minh vừa được khánh thành. Là một người con của miền Nam, tác giả cũng có một mong muốn mãnh liệt được ra thăm vị cha già của dân tộc khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất. Bởi vậy, bài thơ là cảm xúc chân thành, tha thiết, đầy xúc động tác giả dành cho Bác.

    Từ miền Nam xa xôi, Viễn Phương không quản ngại khó khăn để ra gặp Người. Lời thơ thân mật, gần gũi, như đứa con trở về thăm cha:

    Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

    Câu thơ như một lời thông báo ngắn gọn, nhưng ẩn chứa trong đó biết bao nỗi niềm và cảm xúc của tác giả. Từ cực Nam của tổ quốc, Viễn Phương ra Hà Nội không chỉ để chiêm ngưỡng công trình kiến trúc nơi Bác yên nghỉ mà đó là hành trình về với người cha, hành trình trở về nguồn cội của chính mình. Tiếng con nghe sao thiêng liêng và ấm áp quá, nó cho thấy mối quan hệ thân mật, gần gũi mà cũng rất đỗi thành kính, thiêng liêng. Và qua đó cũng diễn tả nỗi xúc động sâu sắc của tác giả sau bao năm xa cách được trở về thăm Người.

    Cái hay, cái đẹp của khổ thơ không chỉ dừng lại ở lớp ngôn từ bình dị, mà còn ở những hình ảnh rất đỗi thân thương: “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát/ Ôi! Xanh xanh hàng tre Việt Nam/ Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng”. Hàng tre xanh ấy chính là tượng trưng cho làng quê, cho con người Việt Nam cần cù, chịu thương chịu khó. Cảm xúc trào dâng, khiến ông bật lên tiếng cảm thán đầy cảm xúc “ôi” chất chứa lòng tự hào. Dân tộc ta trải qua “bão táp mưa sa” – chiến tranh liên miên, cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng vẫn “đứng thẳng hàng” – họ những con người kiên cường, bất khuất trước mọi gian lao, thử thách. Đúng như Nguyễn Duy đã từng khẳng định: “Thân gầy guộc lá mong manh/ Mà sao nên lũy nên thành tre ơi”. Đồng thời những hàng tre này, cũng như vòng tay của quê hương, những đứa con đang ngày đêm canh gác giấc ngủ cho Người.

    Đứng trước lăng Bác, Viễn Phương càng cảm nhận rõ hơn nữa sự vĩ đại của người:

    Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

    Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

    Hình ảnh mặt trời trong câu thơ đầu là mặt trời thực, là nguồn gốc sự sống của vạn vật. Nhưng hình ảnh mặt trời thứ hai là hình ảnh ẩn dụ - ẩn dụ cho Bác. Bác là nguồn sống, đem đến ánh sáng cho dân tộc. Dưới sự dẫn dắt của Bác, đất nước đã được giải phóng, dân tộc được hưởng cuộc sống tự do, hạnh phúc. Bởi vậy, Bác chính là mặt trời của nhân dân, dân tộc Việt Nam. Đồng thời mặt trời mang trong mình hơi ấm, cũng như Bác mang trong mình tình yêu thương bao la với dân tộc: “Bóng bác cao lồng lộng/ Ấm hơn ngọn lửa hồng” (Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ). Trước sự vĩ đại của Người, ngày ngày những người con Việt Nam vẫn lặng lẽ đến bên và kính dâng lên tình cảm, sự trân trọng, kính yêu: “Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ/ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”. Dòng người trĩu nặng nhớ thương, từ khắp mọi miền đất nước vẫn tề tựu về đây, theo dòng người vào thăm lăng Bác. Bằng sự quan sát tinh tế, tác giả đã tạo ra hình ảnh ẩn dụ đặc sắc: tràng hoa. Tràng hoa từ khắp mọi miền tổ quốc, kính dâng lên người với lòng biết ơn vô hạn. Hình ảnh thơ đã biểu lộ tấm lòng thành kính không chỉ của riêng nhà thơ mà còn là của nhân dân đối với Bác.

    Tiến vào trong lăng thời gian như ngưng đọng. Bác nằm trong giấc ngủ bình yên sau những năm tháng hoạt động cách mạng và bên cạnh Bác luôn có người bạn hiền kề cận – ánh trăng. Đồng thời ánh trăng đó cũng cho thấy lối sống thanh cao, nhân cách trong sáng trong cả cuộc đời của Bác. Tròng niềm xúc động vô hạn, Viễn Phương thốt lên đầy đau đớn: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi/ Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Vẫn biết Bác đã hóa thân vào dáng hình, xứ sở trường tồn cùng đất nước, nhưng nỗi đau trước sự ra đi của Bác vẫn làm nhà thơ đau nhói, đó là nỗi đau đột ngột, quặn thắt. Ấy là nỗi đau quá lớn, nghẹn ứ không thể nói thành lời của triệu con tim Việt Nam.

    Thời khắc ở bên Người quả là quá ngắn ngủi, chẳng mấy chốc đã đến giờ phút chia xa. Nghĩ đến việc mình sẽ phải trở về miền Nam, phải xa người nhà thơ không thể kìm nén nổi nỗi xúc động mà biểu lộ ra ngoài:

    Mai về miền Nam thương trào nước mắt

    Câu thơ như một lời giã biệt, mà lắng sâu tình cảm. Nhứng giọt nước mắt trào dâng, lưu luyến, bịn rịn không muốn rời xa nơi bác yên nghỉ. Mặc dù lưu luyến, không muốn rời xa, nhưng bản thân ông cũng hiểu rằng đã đến lúc phải trở về miền Nam. Và đến lúc này ông dấy lên một ước nguyện chân thành tha thiết:

    Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

    Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

    Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

    Điệp ngữ muốn làm kết hợp với các hình ảnh: con chim, đóa hoa, cây tre đã thể hiện nguyện ước chân thành, mãnh liệt của ông. Đó là những sự vật hết sức gần gũi, thân thuộc. Và đặc biệt, ông muốn làm cây tre trung hiếu để nhập vào hàng tre quanh lăng Bác canh giữ giấc ngủ ngàn năm cho Người. Đồng thời hình ảnh này cũng thể hiện niềm kính yêu, lòng biết ơn vô hạn tác giả dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh.

    Cả bài thơ là nỗi xót thương sâu sắc của Viễn Phương khi đến thăm lăng Bác. Nhưng đằng sau đó ta còn thấy tấm lòng thành kính, tự hào trước công lao vĩ đại của Người đối với dân tộc Việt Nam. Cùng với đó là sự kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ,… giọng điệu đầy trữ tình đã tác động sâu sắc đến tâm khảm bạn đọc.